Trích từ “The Theory of Free Banking: Money Supply under Competitive Note Issue” – Tác giả George A. Selgin
TĐ chuyển ngữ
Mặc dù nghiên cứu này sẽ tập trung vào lĩnh vực ngân hàng tự do ở quan điểm lý thuyết, nhưng nó sẽ giúp phát họa ngắn gọn lịch sử ngân hàng trung ương ở các quốc gia phát triển khác. Những người khôn ngoan nhất cũng thường cho rằng sự ra đời của ngân hàng trung ương, ít nhất một phần lớn, là sự đối ứng với những khiếm khuyết của hệ thống ngân hàng tự do. Nhưng những nghiên cứu mới nhất lại có kết quả hoàn toàn ngược lại so với quan điểm này. Những ví dụ sau đây sẽ mô tả rõ hơn bằng những bằng chứng mang tính lịch sử và nhiều tài liệu khác.[1]
Ngân hàng Anh Quốc đã được thành lập bởi Vua William đệ Tam vào năm 1694. Nó được dựng nên nhằm đảm bảo “một khoản bồi thường và những lợi thế. nhất định cho những người tình nguyện đóng góp một khoản 1.500.000 bảng để phục vụ chiến tranh với Pháp.” Trong thời đại của chủ nghĩa trọng thương, việc trao một số đặc quyền cho các doanh nghiệp để đối lấy những tài trợ tài chính cho chính phủ, đặc biệt là trong thời chiến, là điều hết sức bình thường. Trong ngành ngân hàng thì những thứ này còn tiếp tục đến tận thế kỷ 20. Ngân hàng Anh tiếp tục trung thành với những tiêu chí của nó cho đến tận 1826, thường xuyên đảm bảo cho nó những đặc quyền bổ sung song song với việc mở rộng đặc quyền của nó. Vào năm 1697, để đổi lấy một khoản vay 1.001.071 bảng, nó được trao một điều lệ ngân hàng độc quyền, hạn chế sự cạnh tranh đối với các ngân hàng tư nhân khác. Vào năm 1708, để đổi lấy một khoản vay 2.500.000 bảng, các chủ của Ngân hàng đã được đền đáp bằng một luật ngăn cấm ngân hàng liên doanh (ngân hàng tư nhân gồm 6 thành viên trở lên) phát hành giấy bạc. Để chiếm thêm nhiều hơn nữa những đặc quyền trong suốt thế kỉ còn lại, ngân hàng này đã cho chính phủ vay thêm vào các năm 1742, 1781 và 1799. Vào năm 1826 nó phải chịu thất bại đầu tiên: một chiến dịch được khởi xướng bởi Thomas Joplin đã giành lại quyền in tiền và quy đổi tiền tệ cho các ngân hàng liên doanh nằm ngoài bán kính 65 dặm từ trung tâm London, nơi có trụ sở của Ngân hàng Anh. Nhưng sự đe dọa từ cạnh tranh này đã bị thay thế vào năm 1833 bởi một luật chính thức xử phạt các ngân hàng “địa phương” khi họ dùng tiền được in bởi Ngân hàng Anh làm dự trữ và sử dụng thay vì dùng nó như đơn vị quy đổi qua tiền tệ của chính họ. Điều này khuyến khích các ngân hàng địa phương sử dụng tiền của Ngân hàng Anh như là một tiền mệnh giá cao (một vai trò mà nó đã thực hiện ở một mức độ hạn chế như là kết quả của sự độc quyền lưu thông của Ngân hàng Anh), nới rộng quyền lực của Ngân hàng để lũng đoạn nguồn cung tiền trong toàn bộ Anh Quốc.
Kể từ lúc đó thì uy tín của các ngân hàng tự in tiền cũng bị giảm sút như là hậu quả của việc đình chỉ từ năm 1797 đến 1821. Nó tiếp tục bị xói mòn bởi một cuộc khủng khoản xảy ra vào năm 1826. Các nhà chức trách đã hô hào giới hạn việc in tiền, không có cố gắng phân định quyền hạn của Ngân hàng Anh với các ngân hàng ít quyền lực hơn khác. Do đó, những ngân hàng địa phương cùng chỉ trích về việc in tiền thái quá bắt nguồn từ những chính sách của Ngân hàng Anh. Và hệ quả là Luật Ngân Hàng Peel ra đời vào năm 1844, ngăn cấm mở rộng hơn nữa việc in tiền của các ngân hàng địa phương song song với việc yêu cầu 100 phần trăm dự trữ ngoại biên cho việc in tiền của Ngân hàng Anh. Luật Ngân Hàng cuối cùng đã cho phép Ngân hàng Anh độc quyền in tiền, vì họ đảm nhận việc ủy quyền lưu thông tiền hệ cho các ngân hàng địa phương khi các ngân hàng đó đóng cửa. Nó cũng làm tăng thêm sự cứng nhắc của hệ thống bằng cách tăng thêm sự phụ thuộc của các ngân hàng địa phương vào Ngân hàng Anh để đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của người gửi tiền đối với tiền tệ. Vì bản thân Ngân hàng Anh cũng bị hạn chế phát hành tiền giấy, dẫn tới hệ thống đã không đáp ứng được sự gia tăng đáng kể về nhu cầu tiền tệ liên quan đến nhu cầu tiền gửi. Vì lý do này, Đạo luật Ngân Hàng đã liên tục bị đình chỉ cho đến khi Ngân hàng Anh được tự do hoạt động như là một “người cho vay cuối cùng” lúc “khan hiếm tiền dự trữ” được thấy rõ ở phố Bagehot’s Lombard (1874). Khi nó chính thức tuyên bố các trách nhiệm đặc biệt của mình, Ngân hàng Anh đã trở thành ngân hàng trung ương đúng nghĩa đầu tiên, là hình mẫu cho nhiều ngân hàng trung ương khác sẽ được thành lập sau này ở hầu hết mọi quốc gia.
Nếu Anh Quốc là một hình mẫu của hệ thống ngân hàng trung ương, thì ở Tô Cách Lan là một phản đề của nó. Từ năm 1792 đến 1845, ở Tô Cách Lan dù không có một ngân hàng trung ương nào cả, từ đó cho phép cạnh tranh không giới hạn trong việc phát hành giấy bạc, và hầu như ở đây không áp đặt bất kỳ quy định nào đối với các ngân hàng của mình. Nhưng hệ thống ở Tô Cách Lan được cho là vượt trội bởi hầu hết tất cả những ai biết về nó. Sự đi xuống của nó sau năm 1845 xảy ra không phải vì bất kỳ thiếu sót nào, nhưng là hệ quả của sự gia hạn vô cớ của đạo luật Ngân hàng Peel, đạo luật đã chấm dứt các tổ chức mới gia nhập vào ngành kinh doanh phát hành giấy bạc ở Tô Cách Lan cũng như ở Anh Quốc.[2]
Từ năm 1831 đến 1902, Thụy Điển cũng có một hệ thống ngân hàng tự do gần như là không có quy định áp đặt (Jonung 1985). Vào cuối giai đoạn này đã có 26 ngân hàng tư nhân đảm nhận phát hành giấy bạc với tổng cộng hơn 157 chi nhánh. Những loại giấy bạc được phát hành bởi các ngân hàng tư nhân này cạnh tranh xuất sắc với ngân hàng Riksbank (ngân hàng của Quốc hội Thụy Điển) bất chấp các loại thuế và những hạn chế khác được áp đặt lên những tờ giấy bạc tư nhân đó và mặt dù thực tế là chỉ có tiền giấy Riksbank là hợp pháp. Một thước đo của sự thành công của các ngân hàng phát hành giấy bạc ở Thụy Điển, qua sự tồn tại của nó là không một ngân hàng nào thất bại mặt dù chính phủ khi đó đã có một chính sách rõ ràng là không hỗ trợ các ngân hàng tư nhân khi chúng gặp các khó khăn tài chính. Hệ thống được sắp xếp trong đó là một hệ thống trao đổi tiền tệ có tổ chức, các cặp tiền tệ được trao đổi và chấp nhận bởi rất nhiều ngân hàng. Cuối cùng, sự vắng mặt của các điều luật liên quan đến ngân hàng ở Thụy Điển là điều trọng yếu hình thành nên sự phát triển kinh tế vượt bật của nó trong nửa cuối thế kỉ 19.[3] Trong đó việc phát hành giấy bạc tư nhân đóng một vai trò rất lớn, vừa là công cụ để điều phối các nguồn quỹ vay và vừa là một phương tiện đến thúc đẩy phát triển tổng thể và sự tinh vi của hệ thống tài chính Thụy Điển. Tuy nhiên, bất chấp các thành công của nó, hệ thống ngân hàng tự do Thụy Điển đã bị phá bỏ theo từng giai đoạn bắt đầu từ năm 1901, khi chính phủ phẫn nộ trong việc thất thu ngân sách từ việc lưu thông tiền của Riksbank bị giảm sút, từ đó tìm cách áp đặt các quy định và cung cấp các trợ cấp nhằm khôi phục sự độc quyền in ấn giấy bạc lại cho ngân hàng Riksbank. Quyền được in tiền của các ngân hàng tư nhân đã được chính thức bãi bỏ từ năm 1904.
Mặc dù vậy, một chương mới của ngân hàng tự do lại được hình thành ở nơi khác – Phúc Châu, tỉnh thành trung tâm Phúc Kiến, Trung Quốc đại lục.[4] Trung Quốc đã trải qua vô số trải nghiệm thảm khốc với việc phát hành tiền giấy liều lĩnh từ chính quyền, bắt đầu từ tận thế kỷ thứ 9. Cuối cùng trong thời nhà Thanh (1644-1911) quyết định việc phát hành giấy bạc được đặt cách cho các tổ chức tư nhân, ngoại trừ 2 lần nhỏ lẻ, chính phủ không thành công trong việc phát hành tiền giấy vào năm 1650 và 1850. Ở Phúc Châu (và một số thành thị khác), ngân hàng địa phương hết sức phát đạt, phát hành giấy bạc có thể được quy đổi (thường là theo nhu cầu) bằng tiền đồng và tự do khỏi tất cả các quy định từ chính phủ.
Không giống như các vấn đề của chính phủ, những giấy bạc tư nhân này, thứ có tầm quan trọng trong thế kỷ 19, đã rất thành công. Thông thường chúng không mất giá, và được ưa chuộng rộng rãi hơn những tiền đồng cồng kềnh và không đồng nhất. Tiền tệ của những ngân hàng lớn lưu hành xuyên suốt Phúc Châu từng cặp, nhờ hệ thống kết toán hiệu quả. Mặc dù các ngân hàng nhỏ thường xuyên thất bại, chỉ những ngân hàng địa phương lớn làm được như vậy trong toàn bộ lịch sử của ngành này. Những ngân hàng lớn (có khoản 45 ngân hàng trong hệ thống) có được niềm tin và sự tôn trọng của công chúng ở mức độ cao.
Sự xuống dốc của ngân hàng tự do ở Phúc Châu theo sau cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã được gây ra bởi những quy định hạn chế mới từ chính phủ. Họ ủng hộ một vài ngân hàng rất lớn, không có tính địa phương và “theo kiểu tân thời”, những ngân hàng mà có thể cung cấp hỗ trợ tài chính cho cách mạng. Chính phủ Quốc Dân, khi họ nắm quyền từ năm 1927, đã đặt biệt chú ý đến các ngân hàng hiện đại (những ngân hàng phát hành tiền tệ dạng bạc) và ủng hộ họ bằng cách cấm phát hành tiền đồng. Sau cuối, đến 1935, chính quyền Quốc Dân đã đồng ý cho ba ngân hàng hiện đại lớn nhất quyền phát hành tiền tệ. Cuối cùng chính phủ đã định trao cho nhà tài trợ tài chính lớn nhất của mình, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, sự độc quyền trong việc phát hành tiền tệ. Nhưng chương trình này đã bị tạm dừng bởi sự xâm lược của Nhật Bản vào năm 1937, khiến chính phủ phải tập trung toàn lực để tối đa hóa nguồn thu, bằng việc tăng cường in tiền. Hệ quả là những tờ giấy bạc được phát hành bởi chính phủ Trung Quốc trở nên hoàn toàn vô giá trị.
Sự tập trung trong việc phát hành tiền tệ ở Trung Quốc cuối cùng đã hình thành vào năm 1950 bởi Đảng Cộng Sản, khi mà Ngân hàng Nhân dân nắm quyền kiểm soát các chi nhánh của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng như là văn phòng của rất nhiều ngân hàng địa phương còn lại. Mặc dù có ít thông tin thu thập được về hiệu quả của Ngân hàng Nhân dân, những gì thu thập được cho thấy rằng Trung quốc tiếp tục chịu những lạm phát tiềm ẩn rất lâu sau chiến tranh, được ngụy trang bằng một hệ thống giá thành chính thức rộng lớn. Bất chấp sự dư thừa tiền nói chung mà sự lạm phát này ngụ ý, những cộng đồng địa phương vẫn phải chịu sự thiếu hụt của những phương tiện trao đổi nhỏ và tiện lợi,[5] như những gì đã được cung cấp rất tốt ở Phúc Châu trong thời kỳ ngân hàng tự do, không lạm phát.
Ở Pháp, nỗ lực của các thương gia nhằm cố gắng thành lập các ngân hàng trên cơ sở cạnh tranh đã nhiều lần thất bại bởi chính phủ muốn vay tiền, những khoản vay mà họ không thể, hoặc sẽ không trả được. Sự thất bại ngoạn mục của ngân hàng Banque Royale vào năm 1971, vốn đã trở thành một ngân hàng của chính phủ ba năm trước đó, đã ngăn cản sự hình thành của bất kỳ ngân hàng phát hành tiền hệ mới nào. Vào năm 1776, một ngân hàng mới, Caisse d’Escompte, đã được hình thành để tham gia vào việc cho vay thương mại, nhưng đã sớm trở thành chủ của những khoản nợ rất lớn cho nhà nước, khiến nó bị khủng hoảng thanh khoản. Ngân hàng đã khiến nghị lên bộ Tài chính để trả lại khoản vay mới nhất cho nó, nhưng thay vào đó chính phủ đã cho phép đình chỉ các khoản thanh toán tiền mặt. Tuy vậy, ngân hàng vẫn có khả năng thanh toán, và khi các khoản nợ của chính phủ được trả thì các khoản thanh toán tiền mặt lại được tiếp tục. Sau sự kiện này, các khoản vay ép buộc lặp đi lặp lại cho nhà nước đã gắn chặt ngân hàng này với chính phủ và khiến nó trở thành một chi nhánh của bộ Tài chính. Giấy bạc của nó có thể được hoán đổi bởi các ngân phiếu, những thứ mà sau đó được coi như là tiền tệ vào năm 1790. Chính phủ sớm lao vào cảnh phá sản dưới một đống ngân phiếu, ngân hàng Caisse d’Escompte cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự.
Những nỗ lực để hình thành các ngân hàng phát hành tiền tệ vào năm 1790 đã bị đánh bại bởi Napoleon, người đã phản ứng với việc các ngân hàng tư nhân từ chối giảm giá giấy bạc của chính phủ bằng việc thành lập một tổ chức đối thủ, Ngân hàng Pháp, trong đó ông ta cũng là một cổ đông. Sự hỗ trợ ngân hàng mới này, thoạt đầu không mấy ấn tượng lắm, đã được tăng cường khi một ngân hàng tư nhân quyết định hợp nhất với nó. Tuy nhiên, Napoleon vẫn không hài lòng, và vào năm 1803, ông ta đã thông qua một đạo luật trao cho Ngân hàng Pháp đặt quyền in ấn tiền tệ ở Paris và cấm sự hình thành ngân hàng ở các khu vực khác khi chưa có sự chấp thuận từ chính phủ. Điều này đã buộc đối thủ chính của Ngân hàng Pháp là ngân hàng Caisse d’Escompte, phải sáp nhập với nó. Cuối cùng, trong năm 1806, Ngân hàng Pháp đã được đặt dưới sự điều khiển của chính phủ, và vào năm 1808, nó đã được trao độc quyền phát hành tiền tệ ở mọi khu phố mà nó mở chi nhánh.
Sự sụp đổ của Napoleon kéo theo đó là sự thành lập các ngân hàng phát hành tiền tệ trên khắp cả nước. Nó đã bất chấp sự độc quyền trong phát hành tiền tệ của Ngân hàng Pháp, mặt dù sau này nó vẫn là đơn vị cung cấp tiền tệ duy nhất cho toàn quốc. Sau năm 1840, chính phủ từ chối mọi đặt quyền cho các ngân hàng phát hành tiền mới, và vào năm 1848 các đặc quyền đang tồn tại đã được Ngân hàng Pháp thâu tóm. Như vậy thời kỳ cạnh tranh hạn chế đã tồn tại một cách ngắn ngủi. Nhưng sự kết thúc của nó đã giấy lên một cuộc tranh luận dai dẳng giữa những người ủng hộ ngân hàng tự do với những người bảo vệ cho Ngân hàng Pháp, với hầu hết các nhà kinh tế gia người Pháp ở phe cũ.[6] Những nhà lý thuyết về ngân hàng tự do của Pháp đã một lần nữa hoạt động sôi nổi trở lại vào năm 1857, khi những điều lệ của Ngân hàng Pháp được mang ra xem xét đổi mới. Vào năm 1860, việc sáp nhập Savoy, một nơi có ngân hàng phát hành tiền tệ riêng, đã giấy lên một cuộc thảo luận gay gắt nhất, nhưng ngay sau đó, những thất bại trong việc giành được bất kì chiến thắng thiết thực nào cho niềm tin của họ đã khiến những người chủ ngân hàng tự do từ bỏ chính nghĩa của họ. Thập kỷ đóng lại với dấu ấn cũng là sự kết thúc của phong trào chống độc quyền trọng yếu.
Không giống như trường hợp ở Pháp, Tây Ban Nha có hệ thống ngân hàng tương đối tự do trong những giai đoạn trước năm 1873. Nó có nhiều ngân hàng tự phát hành giấy bạc, hầu hết những ngân hàng đó nắm thế độc quyền ở địa phương nơi nó được thành lập. Có một ngoại lệ là Ngân hàng Tây Ban Nha, mặt dù ban đầu nó được sinh ra là một doanh nghiệp bảo thủ tài chính, nhưng dần dần đã lún sâu vào những vụ cho vay quy mô lớn với chính phủ và cuối cùng là biến thân trở thành một cơ quan tài chính cho nhà nước. Phần thưởng cho việc này là nó được trao những quyền đặc biệt để phát triển các chi nhánh liên tỉnh. Đến năm 1874, sau năm sau khi chế độ quân chủ Bourbon bị lật đổ, để đáp lại khoản cho vay hậu hĩnh 125 triệu pê sô, chính phủ cộng hòa mới thành lập đã trao cho ngân hàng này sự độc quyền để phát hành tiền tệ.[7] Chính phủ cũng đưa ra những nhượng bộ hào phóng cho các ngân hàng khác thay vào đó họ sẽ trở thành các chi nhánh của Ngân hàng Tây Ban Nha. Hầu hết các ngân hàng nhỏ đồng ý với điều này.
Nước Ý trong thập kỷ đầu độc lập của mình, cũng có rất nhiều những ngân hàng tự phát hành giấy bạc. Nhưng Chính phủ Thống nhất lúc đó đã đưa quốc gia vào cảnh nợ nần chồng chất, trong đó có nhiều ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Quốc gia, liên quan đến. Thay vì giải thể, chính phủ Ý đã viện đến sự giúp đỡ từ các ngân hàng phát hành giấy bạc.[8] Sự giúp đỡ được đảm bảo bằng việc cho phép tiền giấy phát hành bởi Ngân hàng Quốc gia liên kết với những khoản cho vay với chính phủ để trở thành tiền tệ không thể chuyển nhượng (bắt buộc), trong khi cùng lúc đó trao quyền hạn chế cho các giấy bạc của những ngân hàng khác. Sự sắp xếp này kéo dài đến năm 1874, khi mọi ngân hàng ở Ý được đứng ở vị thế ngang bằng, theo đó tất cả đều được cho phép tham gia vào việc phát hành tiền giấy không thể hoán đổi nhằm mục đích kiếm tiền từ các khoản nợ quốc gia. Sự cải cách này đồng thời ngăn cấm những sự gia nhập mới vào việc kinh doanh phát hành giấy bạc. Hệ quả của cải cách này là hệ thống cung cấp tiền tệ ở Ý trở nên vô cùng bất ổn. Nó phát triển theo đà phát triển của chi tiêu chính phủ. Vào năm 1883, việc chuyển đổi bằng vàng chính thức được khôi phục, nhưng thiếu sự thực thi nghiêm ngặt, bao gồm nhiều hạn chế nghiêm trọng được đặt lên sự trao đổi các loại tiền tệ với nhau cũng như là việc giải quyết sự chênh lệch giữa các ngân hàng, khiến hệ thống vẫn ở trong tình trạng không thể chuyển đổi trên thực tế. Mười năm sau, một vụ bê bối nổ ra khi một số ngân hàng đã phát hành những giấy bạc phi pháp. Điều này dẫn tới những cải cách và sau cùng là sự thành lập Ngân hàng Ý, ngân hàng được trao độc quyền phát hành giấy bạc vào năm 1926.
Francesco Ferrara, kinh tế gia hàng đầu của Ý trong thời kỳ Thống nhất, đã lập luận kịch liệt chống lại các điều luật tiền tệ bắt buộc và những quy định khác nhằm hạn chế nghĩa vụ của các ngân hàng trong việc mua lại những giấy bạc của họ (Ferrara 1866). Ferrara chống lại sự hạn chế việc tham gia vào thị trường cung cấp giấy bạc, lập luận rằng việc tự do cạnh tranh giữa các nhà phát hành tiền giấy là điều tốt nhất cho việc đảm bảo một thị trường tiền tệ ổn định (Ferrara 1933). Những ý kiến này cũng đã được tán thành bởi Guiseppe Di Nardi trong nghiên cứu cuối cùng của ông ta về thời kì này của ngành ngân hàng Ý (Di Nardi 1953).[9] Những phát hiện của các nhà nghiên cứu trên cho thấy mạnh mẽ rằng sự can thiệp của chính phủ Ý đã hủy hoại những gì đã có thể trở thành một ví dụ minh họa cho sự thành công của hệ thống ngân hàng tự do.
Những gì xảy ra ở Gia Nã Đại cũng hoàn toàn ngược lại với ý kiến cho rằng ngân hàng tự do là kém cỏi so với hệ thống ngân hàng trung ương. Trong suốt thể ký 19, Gia Nã Đại có một hệ thống các quy định về ngân hàng tự do rất nhiều hơn so với Hoa Kỳ, và hệ thống ngân hàng của nó hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với hệ thống ở Hoa Kỳ trong cùng thời điểm. Luật pháp ở Gia Nã Đại cho phép nhiều loại tiền tệ được phát hành, cho phép việc mở rộng các chi nhánh ngân hàng, và khuyến khích sự phát triển của hệ thống kết toán phức tạp.[10] Sau năm 1841, hạn chế nghiêm trọng duy nhất ảnh hưởng đến sự tự do của ngân hàng là liên quan đến vấn đề vốn và phát hành giấy bạc. Để nhận được điều lệ và trạng thái trách nhiệm hữu hạn, một ngân hàng phải có số vốn tối thiểu 50 vạn đô la sau khi khai trương. Sự phát hành giấy bạc cũng bị hạn chế tương đương với số vốn này, nhưng sự hạn chế này không có hiệu lực đến khi sự khan hiếm tiền tệ nghiêm trọng vào năm 1907.[11] Vào năm 1908, luật đã được sửa đổi để cho phép một lượng tiền lưu thông khẩn cấp có thể được phát hành quá 15% số vốn trong thời kỳ thu hoạch vụ mùa. Chính phủ cũng nắm độc quyền việc phát hành giấy bạc dưới 5 đô la, nhưng giấy bạc của chính phủ bị giới hạn bởi yêu cầu dự trữ biên là 100% mô phỏng theo đạo luật Peel. Vì lý do này những tiền giấy được chính phủ phát hành đã không thể trở thành nguồn cơn của việc lạm phát cho đến tận Đệ Nhất Thế Chiến, khi Gia Nã Đại gia nhập Anh Quốc và các quốc gia tự trị khác trong việc từ bỏ bản vị vàng. Sau đó chính phủ cho phép, thậm chí gây áp lực lên các ngân hàng để tạm dừng thanh toán, điều mà họ đã từng làm. Trong khi đó thì giấy bạc của chính phủ (Tự trị) trở thành công cụ thanh toán chính và phát hành với mệnh giá lớn để khuyến khích dùng nó trong quá trình kết toán với các ngân hàng khác. Vì chính phủ lẫn các ngân hàng không thanh toán bằng vàng nữa, nen đây là một hệ thống ngân hàng trung ương tiền pháp định, với Kho bạc hoạt động như là đơn vị phát hành tiền tệ. Mặc dù thế chiến kết thúc, chính phủ vẫn không bãi bỏ các giấy bạc mệnh giá lớn, và cũng không bãi bỏ các luật liên quan, thứ đã giúp nó trở thành đơn vị phát hành tiền lớn, và do đó, Kho bạc vẫn giữ quyền thao túng nguồn cung tiền.
Mặc dù Gia Nã Đại trở lại với bản vị vàng vào năm 1920, nhưng sau đó lại bãi bỏ vào năm 1931 (đồng điệu với Anh Quốc). Các chuyên gia tiền tệ Gia Nã Đại nhanh chóng trở nên chán nản với các biện pháp “nửa vời” ảnh hưởng đến việc phát hành tiền tệ, trong đó Kho bạc vẫn thao túng nguồn cung tiền như là một ngân hàng trung ương nhưng không được hướng dẫn bởi bất kỳ chính sách nào. Thực tế này cùng với nhu cầu của chính phủ muốn trốn thoát hoàn toàn khỏi những hạn chế của tài chính tư nhân, dẫn đến nhu cầu cho sự thành lập một ngân hàng trung ương đúng nghĩa. Để đáp ứng nhu cầu đó, Ngân hàng Gia Nã Đại đã được thành lập vào năm 1935. Nó đảm bảo một độc quyền trong việc phát hành giấy bạc ngay sau đó.
Hệ thống ngân hàng ở Gia Nã Đại là một ví dụ điển hình của một hệ thống ngân hàng tự do hoạt động có hiệu quả, ít bị khủng hoảng và và bao gồm một số ngân hàng uy tín nhất thế giới. Nó thường xuyên được viện dẫn bởi các nhà nghiên cứu Hoa kỳ trong cơn lo lắng tìm kiếm những giải pháp cho hệ thống của chính họ, nhưng, không may là, trong hầu hết các trường hợp đều tìm thấy câu trả lời trong một số các điều luật từ chính phủ. Ở giai đoạn đầu của cuộc Đại khủng hoảng (nhiều năm trước khi Ngân hàng Gia Nã Đại được thành lập), khi hàng ngàn ngân hàng ở Hoa Kỳ phải đóng cửa, hệ thống ngân hàng ở Gia Nã Đại lại chứng minh sự đáng giá của nó bởi không một biến cố ngân hàng nào đã xảy ra.
Ba quốc gia tự khí khác, Nam Phi, Úc Đại Lợi, và Tân Tây Lan, cũng có hệ thống phát hành đa tiền tệ và cũng chấp nhận hệ thống ngân hàng trung ương như là một giải pháp tài chính trong thời kỳ chiến tranh. (The experience of Australia is discussed below in chapter 3.) Trong những trường hợp này, không rõ là ngân hàng trung ương đã được dựng nên bởi vì ngân hàng tự do có những khiếm khuyết cố hữu nào hay không. Với mong muốn của chính phủ để được vay tiền với những điều kiện có lợi cho họ, cùng với sự thừa nhận của các nhà lý thuyết rằng trong thời kỳ chiến tranh, việc lập pháp đã phát hoại những kiểm tra với việc mở rộng tiền tệ, đó là những lý do rõ ràng nhất cho sự hình thành những ngân hàng trung ương ở các quốc gia.[12] Các quốc gia tự trị khác đã được thúc dục bởi chính phủ cai trị để theo hình mẫu với lý do rằng điều đó là cần thiết cho “hợp tác nội bộ-đế quốc”. Đến thời điểm này thì ngân hàng trung ương đã trở thành niềm tự hào quốc gia, và một quan điểm dần phát triển là “không một quốc gia nào có thể được coi là đã trưởng thành đến khi nó khai sinh ra ngân hàng trung ương”.
TĐ chuyển ngữ
[1] Nhiều khảo sát lịch sử hơn có trong Cameron (1972); Conant (1915); và V. Smith (1936).
[2] Nghiên cứu toàn diện và xuất sắc của Lawrence White về hệ thống của Tô Cách Lan, Free Banking in Britain, khiến chúng tôi không cần phải đi sâu vào chi tiết của nó ở đây.
[3] Xem Lars G. Sandberg (1978).
[4] Để xem những bàn thảo chi tiết hơn, vui lòng tham khảo “Free Banking in China, 1800-1935.”
[5] Bằng chứng có trong “‘Circulation Notes’ in Rural China” (1957). Trong đó đề cập đến thông tin cho rằng các Hợp tác xã Nông nghiệp (APC) đã tiến hành phát hành tiền tệ bất hợp pháp để bù đắp cho việc Ngân hàng Nhân dân không cung cấp đủ tiền giấy mệnh giá nhỏ.
[6] Phái ngân hàng tự do của Pháp bao gồm các thành viên Charles Coquelin, J. G. Courcelle-Seneuil, Gustave de Molinari, J. E. Horn, và Michel Chevalier. Trong số những đóng góp về học thuật của họ, ấn tượng nhất là “La liberte des banques” của Horn (1866). Về lịch sử của trường này, xem Nataf (1983).
[7] Thời điểm đó, số này xấp xỉ $25 triệu. “Tất cả các ngân hàng địa phương, khoản 18 cái như vậy, đã được yêu cầu để thanh khoản tất cả và chuyển hết về cho Ngân hàng Tây Ban Nha.” Xem Conant (1915, 313).
[8] “Trong giai đoạn 1861-90, ngân sách của chính phủ bị thâm hụt hàng năm và nợ công tăng từ 2,4 tỷ lire vào năm 1861 lên 12,1 tỷ lire vào năm 1890.” Xem Jon S. Cohen, “Italy 1861-1914,” trong Cameron (1972). Bài báo này cung cấp cho một bản tường trình ngắn gọn, hay ho về quá trình tập trung hóa hệ thống tiền tệ của Ý.
[9] Hai nhà nghiên cứu đương đại những người có cùng quan điểm với Di Nardi là Michele Fratianni và Franco Spinelli (1984).
[10] Mặc dù chỉ còn lại 5 ngân hàng lớn ở Gia Nã Đại ngày nay, nhưng đã có khoản 40 ngân hàng vào năm 1880, 20 vào năm 1910, và 11 vào năm 1930. Hầu hết trong số này có mạng lưới chi nhánh rộng khắp.
[11] Ontario và Quebec thông qua luật “ngân hàng tự do” theo kiểu Nữu Ước vào khoản năm 1850 và 1860, vì thế những khoản phát hành tiền giấy của họ bị giới hạn bằng những yêu cầu gửi trái phiếu. Nhưng những ngân hàng đã tồn tại ở đó trước khi luật được thông qua thì không bị ảnh hưởng. Kết quả là, theo lời của Horace White, các ngân hàng không được kiểm soát “dồn các ngân hàng tự do vào chân tường.” Luật ngân hàng tự do cuối cùng cũng bị bãi bỏ vào năm 1866. Xem Horace White (1896, 360-61).
[12] Xem Plumptre (1938).
Leave a Reply
Your email is safe with us.