Nguyên Phó Đề Đốc Hải Quân Hoa Kỳ James B. Stockdale
Nguyên tác: Stockdale on Stoicism II:
Master of My Fate by VADM James B. Stockdale, USN (Retired) 1995
Le Tung Chau dịch sang Việt ngữ và thêm chú thích – Japan, Dec. 2020
(TIẾP THEO VÀ HẾT)
Sứ mệnh của tôi trong lao tù
Ấy vậy, tôi đã đưa những suy niệm khắc cốt ghi tâm đó vào tù; Tôi cũng nhớ nhiều điều đáng ghi nhớ về việc định hình thái độ cho mình. Đây là lời Epictetus về cách ứng phó với nghịch cảnh: “Chủ tể của người là một thực thể khả dĩ ban bố hoặc loại bỏ bất cứ thứ gì mà người ấy tìm cầu hoặc giải trừ. Từ đó hễ ai đã được tự do tự tại rồi, thì ắt anh ta chả còn phải mong cầu hay khước từ những điều tùy thuộc nơi kẻ khác; bằng không, nhất định anh ta phải chịu bó thân trong cảnh nô lệ, trói buộc.” Và đây là lý do tại sao đừng bao giờ van xin: “Cứ thà chết đói mà không chút sợ hãi và tội lỗi, còn hơn sống đủ đầy mà thắc thỏm âu lo.” Việc van xin sinh ra một nhu cầu đối đãi có qua có lại, thương lượng, thỏa hiệp, ăn miếng trả miếng – toàn là những địa ngục trần gian.
Nếu bạn muốn giữ mình khỏi “nỗi sợ hãi và có tội” – và khỏi những thứ gọng kìm siết chặt, những tên giặc thứ thiệt lâu ngày chày tháng sẽ hủy hoại ý chí bạn – thì bạn phải gạt bỏ mọi bản năng làm hòa, thỏa hiệp. Bạn phải học cách lánh mình, không bao giờ mở lời bàn thảo, không bao giờ hạ mình xuống ngang hàng với kẻ thù. Bạn phải trở thành cái mà Ivan Denisovich [1] gọi là “tên tù gà rù khép kín”.
Tất cả những điều đó, từ ba năm trước, tôi đã vô tình cất giữ để dành cho tương lai. Thế vậy, khi tôi nhảy ra khỏi phi cơ, rồi sau một hồi tôi bị một đám như bầy thảo khấu kéo đến đánh hội đồng đấm đá túi bụi (kéo dài cỡ hai, ba phút trước khi một tên công an đội nón cối kịp đến thổi còi can thiệp), tôi đã bị trọng thương đến gãy chân khiến lúc ấy tôi linh cảm đấy sẽ là thương tật vĩnh viễn. Linh cảm ấy hóa ra là không sai chút nào. Tiếp đó, tôi cảm thấy chút đỉnh nguôi ngoai – nhưng chỉ là phần nhỏ, thứ yếu thôi – khi nhớ lại một lời cảnh tỉnh khác của Epictetus: “Bị què là một thứ chướng ngại với cái chân chứ không phải chướng ngại với Ý Chí; các anh đừng quên tự kỷ ám thị như thế về nhiều chuyện khác còn xảy dến. Và các anh cũng sẽ thấy rằng dù những chuyện như thế mà gây chướng ngại cho những gì khác đi nữa thì tuyệt nhiên nó cũng không hề hấn gì đến cái Bản Ngã của các anh”
Vậy nên, trong tù, tôi đã trở thành một con người mang theo mình một sứ mệnh. Để giải thích điều này, xin các bạn cho tôi thổ lộ chút nỗi niềm tâm tình của dân nhà binh vốn đã là một phần di sản của lứa quân nhân chúng tôi vào năm 1965.
Vào thời hậu Chiến tranh Triều Tiên, chỉ mới hơn 10 năm trước đây thôi, ắt là hết thảy chúng ta đều chưa quên khi đọc và xem các bản tin tường thuật khởi đầu trên vô tuyến truyền hình về các cuộc điều tra của chính phủ Hoa Kỳ chuyên sâu về hành vi, nhân dáng của một số tù binh chiến tranh Mỹ ở Bắc Hàn và Hoa lục. Nét chính nơi các tường thuật đó là trong các nhà tù giam giữ người Mỹ, người nào cũng đều lo sống thủ thân. Dạo ấy, tôi đã có biết đến các sĩ quan từng là tù binh chiến tranh ở đó, và cho đến giờ tôi xem phần lớn đó như là thứ báo cáo có chủ ý và như thể một kiểu buộc tội rẻ tiền. Đành rằng vẫn có những trường hợp những quân nhân trẻ đã ngỡ ngàng lúng túng trước tình thế, hoặc bị sợ hãi chết khiếp, hoặc khi trời giá lạnh, xử với nhau thật tệ, gây gỗ cắn xé nhau chẳng khác nào bầy khuyển, đẩy nhau ra ngoài tuyết lạnh cho đến chết, mà chẳng một ai can thiệp.
Việc này phải chấm dứt, và Tổng Thống Eisenhower đã phân nhiệm việc soạn ra một Bộ Nội quy Hạnh kiểm của Người Chiến binh Mỹ. Nó được soạn thảo dưới dạng một bản tự giác cam kết. Điều 4:
Nếu tôi bị bắt làm tù binh, tôi nguyện một lòng gắn bó keo sơn với đồng đội bạn tù. Tôi sẽ không khai ra với địch thông tin đồng đội cũng như không nhúng tay vào bất kỳ việc làm nào có thể gây phương hại cho đồng đội. Nếu tôi là thượng cấp, tôi sẽ giữ quyền chỉ huy. Nếu không phải là cấp trên, tôi sẽ tuân theo hệ thống quân giai thi hành mệnh lệnh của người được chỉ định làm cấp trên tôi và tôi nguyện sẽ yểm trợ đồng đội bằng mọi giá.
Nói cách khác, kể từ thời điểm Bộ Nội quy Tự giác có hiệu lực sau khi Eisenhower đã ký, thì các tù binh chiến tranh người Mỹ không tránh đâu khỏi mối ràng buộc quân lệnh được nữa; bị giam sau chấn song nhà tù nhưng cuộc chiến chưa phải đã kết thúc.
Là người từng có vai vế trong tù, tôi nắm biết hết toàn bộ lề lối bố trí các nhà tù; rằng là Bắc Việt hiện đã giam giữ khoảng 25 tù binh, có thể họ đặt nhà tù ở Hà Nội, và với tư cách là phi đội trưởng duy nhất còn sống sót sau cú nhảy ra khỏi phi cơ, tôi sẽ là thượng cấp và là sĩ quan chỉ huy của số tù binh đồng đội ấy – là điều sẽ vẫn duy trì như vậy, rất có thể, trong suốt cuộc chiến còn tiếp diễn trong tù này. Tôi có một linh cảm nó ắt phải còn kéo dài ít nhất 5 năm nữa. Vậy đó, giờ tôi đã hiện diện nơi đây, bắt đầu với cái chân què và nằm chết dí một chỗ.
Hóa ra Epictetus vẫn cứ đúng. Như những gì đã đề cập ở trước, tình thế này chỉ là một bước lùi tạm thời so với nhiều thứ khác còn quan thiết với tôi biết bao, và việc được giao thủ vai nhân vật có thẩm quyền tối cao của dải lục địa Mỹ quốc nối dài đến tận nơi này cũng đã được trù định để bảo toàn tôn ti trật tự, rồi còn bị mất liên lạc với Washington, trong nhiều năm liền, là điều vô cùng hệ trọng với tôi. Tôi cũng khẳng quyết phải “thủ diễn cho thật khá phân vai được giao.”
Một chữ then chốt trước hết với tất cả chúng ta đó là con người vốn là những thực thể mong manh hư ảo. Mỗi người chúng ta, trước khi từng biết thế nào là chung lưng đâu cật với một người Mỹ khác như thế này, đều được soạn sửa cho việc “đưa tay chịu trói”. Nên đây quả là một cú biến động choáng váng thực sự với phủ tạng chúng ta – và cùng với cả những cú biến khác nữa, nó gây ra trên tâm khảm ta vết hằn sâu khó phai kéo dài còn nặng nề hơn nhiều trên mình mẩy tứ chi. Đó là những lần khảo cung mà ta bị hạ nhục để bị khuất phục cho kỳ được và được sắp sẵn để miệng ta phun ra những lời lẽ mà thâu vào những máy ghi âm cổ lổ sĩ những gì gọi là nhận tội ngoài ý muốn ta về việc tham chiến của người Mỹ, và rồi bị tống vào thứ mà tôi gọi là trò “nhúng lạnh”, bị biệt giam hoàn toàn sáu hoặc tám tuần lễ mà “nghiền ngẫm về tội ác của chúng ta.” Cái gọi là nghiền ngẫm mà họ đòi chúng ta ấy là những gì mà ngay cả một người Mỹ tự mãn nhất cũng thấy đó là sự phản bội chính mình cũng như phản bội với mọi lẽ mà mình dấn thân. Chính ở đây, tôi đã rút ra được cái điều gọi là “mối hại dưới nhãn quan Khắc Kỷ” có nghĩa là gì. Nếu đem ra mà so thì nào gãy vai, gãy xương lưng và cả hai lần gãy chân đi nữa cũng đều là chuyện cỏn con như hạt đậu. Epictetus đã bảo: “Khỏi phải tìm mối hại nào xa xôi hơn điều này: đó là cái nhân cách người tự trọng, đức hạnh và sắt son nơi ta bị hủy hoại.”
Khi bị tống vào xà lim biệt giam nhiều ngày, rồi khi lần đầu nghe bạn tù xà lim bên cạnh thầm thì như vầy: “Bạn đừng có mà nói chuyện gì với tôi nhé; tôi là tên trở cờ đấy” thì hầu như chả có người Mỹ nào lại không đáp lại chút gì. Và bởi vì chúng ta đều mong manh yếu nhược như nhau, nên dường như tất cả đều đáp lại đại loại như sau: “Nghe này, ông bạn, đây chả phải nai tơ nhé. Ông bạn nên nghe đôi chút tâm tình của tôi đây này. Bỏ cái tật đó đi. Bọn mình cạnh nhau thế này mà. Bạn tên gì? Nói tôi nghe chút gì về bạn đi”. Với hầu hết các tù nhân mới qua khỏi màn giáo đầu lục soát và bị tống vào mà “nhúng lạnh”, thì nghe mấy lời sau cùng đó là cả một bước ngoặt quyết định trong đời họ.
Đoàn ngũ tù nhân
Bằng cách gõ mật mã vào vách xà lim để thông tri với nhau, chúng tôi đã lập ra được một đoàn ngũ bí mật – một Đoàn ngũ có đủ luật lệ, truyền thống, tập tục riêng, thậm chí cả những gương can trường anh dũng. Để giải thích vì sao chúng tôi có thể truyền lệnh ra cho nhau biết về nhiều trò tra khảo, truyền cho nhau lệnh bất tuân các đòi hỏi nhất định của nhà tù, cố ý gọi tên không che dấu những trò bịp của bọn cai ngục và bắt anh em lặp lại cho thuộc những căn dặn đã đề cập ở trên, không chi bằng để tôi thanh minh ở đây qua một tuyên ngôn do tôi dựng đứng lên, vốn nó được gợi hứng từ ít nhất trong phân nửa số những chàng trai trẻ hết sức lanh lợi đã qua kiểm tuyển kỹ mà tôi phát hiện ra khi tôi bị giam chung với họ:
Chúng ta chẳng may sa vào một chốn tồi tệ mà trước đây chưa từng biết đến như thế này. Nhưng không vì thế mà nó ngăn được ta tiếp tục khẳng định lòng tự tôn tự trọng vốn có và không để đánh mất phản xạ đang kháng địch. Vẫn biết rằng ta không thể từ chối hết thảy mọi thứ thấp hèn mà họ bắt chúng ta phải làm, nhưng chuyện còn tùy vào ta, ta mới là ông chủ, có quyền chọn làm hay không làm mọi thứ, trừ phi và cho đến khi bọn họ lại đem ta đi cùm lần nữa. Ban đêm chúng ta phải đáng được ngủ chứ. Ít ra chúng ta cũng còn đáng được toại nguyện rằng ta vẫn đang tuân thủ mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Hãy suy nghĩ và làm một liệt kê nhỏ với ta rằng: họ đem chúng ta đi tra khảo vì chuyện gì?
Đấy là bước khởi đầu trong việc khẳng định một cách chính đáng chúng tôi có được những gì. Epictetus đã bảo: “Người ta thường nghĩ là quan tòa mới là kẻ gieo rắc những thứ làm cho tội nhân khiếp hãi; nhưng mặc khác tội nhân cũng có quyền cứ thực thi cái hành hạ đày ải do quan tòa đem ra hù nhát mà ông ta không sao ngăn cản được”. Cung cách Khắc Kỷ của tôi là thế đấy. Bạn có được cái quyền xui khiến họ làm cho bạn đau đớn, còn họ thì lại không thích thế. Khi Hanoi trả tự do cho người bạn tù của tôi, Ev Alvarez, tay chính trị viên nhà tù nói với anh rằng: “Người Mỹ các anh không có chút gì giống người Pháp cả; thậm chí bọn tôi còn đồ rằng họ là những kẻ biết điều hơn cũng nên.”
Tôi miên man suy tưởng đến một huấn lệnh sắp đưa ra sẽ có hình thù như thế nào. Đấy sẽ là những huấn lệnh mà mọi người được khuyến tấn tuân theo, không phải kiểu thủ tục phòng thủ dựa vào tư cách công nhiên của quân nhân Hoa Kỳ như “danh tánh, số quân, cấp bậc v.v…”, là những thứ sẽ chẳng có dịp mà trổ ra trong phòng tra khảo hỏi cung. Tôn chỉ của tôi là, “Dù chúng ta hiện diện nơi đây dưới họng súng của kẻ thù nhưng chúng ta là những tay cự phách bản lãnh, số phận ta vận mệnh ta phải do ta làm chủ. Hãy dẹp ngay, bỏ ngoài tai những giọng điệu lặp đi lặp lại như con vẹt lên lời kết tội của những thứ luật lệnh vớ vẩn, hãy thôi màng tới lý thuyết gì ráo mà ngồi xuống viết ra luật tắc cho chính mình”. Các huấn lệnh của tôi trình bày dưới dạng mấy chữ viết tắt dễ nhớ. Cái cốt yếu là DỰA VÀO CHÍNH MÌNH. Không khom lưng xun xoe giữa chốn thập mục sở thị; không dựa hơi; không nhận tội; không bao giờ chào nhã nhặn lịch sự [2]. U.S. cũng được hiểu là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, nhưng thực nghĩa là mỗi chúng ta phải làm việc dưới một mẫu số chung tối giản, không bao giờ toan tính cho riêng mình mà phải cho chung tất cả đồng đội.
Lề lối cai tù trở nên một thứ pha tạp quái đản giữa 2 hệ cũ và mới. Thường thì trong cái cũ, đây là nhà tù chính trị chuyên dành giam giữ giới bất mãn, bất đồng chính kiến - kẻ nội thù của nhà nước. Nó là một mẩu cắt cúp của Hồ Chí Minh từ mẫu mã do cộng sản Đệ Tam quốc tế vẽ ra và lấy đó để trị dân. Ý chính của nó là tạo ra “ăn năn” vì “tội lỗi” cho những ai có hành vi chống chế độ. Các tù binh Mỹ, bọn tội phạm băng đảng bất hảo và kẻ nội thù, bất đồng chính kiến – tù chính trị của chế độ đều bị dồn hết vô một nơi. Chúng tôi chưa hề thấy có một “nhà tù dành riêng cho tù binh chiến tranh” nào ở đây như thường thấy trong phim ảnh. Nhà tù cộng sản vừa là bệnh viện điên vừa là trại cải tạo. Điều lệ của Bắc Việt công khai ghi rõ buộc tất cả tù nhân của họ phải tỏ ra ăn năn hối lỗi, phải khom lưng cúi đầu trước lính cai ngục, đầu phải cúi thấp và không được ngẩng mặt lên. Trong các buổi khảo cung dày đặc, cán bộ lấy cung còn cố ý nhắc lại không vì lý do gì khác hơn là kiểm xem bạn đã chịu khuất phục chưa. Và nếu bị đánh giá là “lầm lỗi”, thì bạn khó tránh khỏi rơi vào loạt hành hạ tra tấn để tuôn ra lời nhận tội, xin tha, và kế đến không tránh khỏi làm cái gì đó để đáp lại mà chuộc tội.
Còn trong cái mới, nó được dồn thêm lên nữa, chỉ dành riêng cho tù binh Mỹ. Đó là một cả bộ máy tuyên truyền, do các sĩ quan trẻ bộ đội quan liêu phụ trách giám sát kỹ lưỡng, biết nói tiếng Anh, có tiêu chuẩn đàng hoàng, những tiêu chuẩn do bộ chính trị của chính quyền đặt định: những buổi phỏng vấn họp báo khi có người Mỹ thuộc cánh tả đến thăm, lên lịch quay phim tuyên truyền (có sự tham gia ép buộc của cả những phi công bị họ gọi là “giặc lái”) và nhiều thứ khác đại loại như thế.
Diễn trình tóm gọn về cách làm sao cho cái ý tưởng rẽ đôi nhà tù như vầy được ăn khớp là: Các đoạn phim tuyên truyền và các cuộc phỏng vấn phải khơi gợi ra được tác dụng ngược. Những người Mỹ bảnh bao có ăn có học đã thêm mắm dặm muối vào diễn xuất của họ bằng những cử chỉ, câu nói, mang nghĩa nước đôi sao cho khán giả phương Tây đọc thấy đó là khôi hài, tục tĩu bẩn thỉu, cùng những câu chuyện chọc cười cho thiết thực. Một trong những chiến hữu thân nhất của tôi, vốn là người biết trước ai là kẻ trả nợ cho những nhẹ tay của địch bằng cách tham gia các hoạt động phản chiến [ khi về nước – chú của người dịch], đã bị tra tấn để khai ra danh tánh các phi công, anh bảo chỉ nói có hai cái tên: Trung úy Clark Kent và Ben Casey. Thế là vụ này liền lên ngay trang nhất tờ nhật báo SanDiego Union, và rồi có kẻ đã chuyển về cho Hà Nội một tờ. Hậu quả của nghĩa cử thân thiện quý hóa ra phết đó từ chính một đồng hương Mỹ của Nels Tanner đã khiến anh phải trải qua 3 ngày liên tiếp bị trói lại tra tấn, tiếp đó là bị tống vào xà lim biệt giam cùm cả 2 chân 123 ngày.
Vì vậy, sau mấy cú mạo hiểm với cái giá phải chịu mất thể diện nặng nề, Bắc Việt bèn quay sang dùng cách khuyến dụ ve vãn chỉ một số tương đối ít tù binh Mỹ nào mà họ khả dĩ tin cậy được là không gây phiền thế nữa – những người tù tách ra ru rú một mình, những người này vì nhiều lý do khác nhau, không chịu gia nhập Đoàn ngũ tù binh, không bao giờ dính vô việc truyền tin bằng mật mã gõ vách nhà tù, với chúng tôi họ như những quả bóng hèn bẩn không ai không biết đến độ chúng tôi gọi là “bọn chỉ điểm kinh tởm”.
Đại đa số tù binh Mỹ bị giam ở Hà Nội và nhiều nơi khác, dù nhìn dưới mọi góc độ, đều là “những người tù danh giá”, nhưng nói như vậy không hoàn toàn hàm nghĩa gì giống như một bầu khí thuần nhất trong lao tù mà tất cả chúng ta nói với nhau ở đây. Mọi người ưa nghĩ rằng vì chúng tôi đều bị giam cùng trong một hệ thống nhà tù của Hà Nội, nên ai cũng có chung với nhau những trải nghiệm này. Không phải vậy. Bầu khí khác biệt này trở nên rõ nét hơn khi Đoàn ngũ tù binh chúng tôi tăng cường các nỗ lực thông tri cho nhau về con quái vật hai đầu có tên gọi là “Ban Quản lý hay Ban Giám thị trại giam”. Bắc Việt bèn quay sang trả thù cách điều hành của Đoàn ngũ tôi và ra sức phá hoại nhuệ khí của những người khác bằng cách đưa ra cái bã mồi chương trình ân xá, giảm án để dụ họ, theo đó họ sẽ phải thi đua bằng cách tuân theo những gì Bắc Việt muốn để mau được phóng thích.
Đi vào “Xó Tối”
Vào tháng 5 năm 1967, cục công an PA của chế độ Hà Nội la lối ầm ĩ rằng: “Tù binh các anh, ai chịu ăn năn, hối cải thực sự, sẽ có thể được thả về nhà trước khi chiến tranh kết thúc. Còn mấy kẻ ngoan cố cứng đầu kích động xúi giục những tên tội phạm khác chống Giám thị trại sẽ bị đưa đến một xó tối riêng biệt.” Lập tức, tôi đưa ra huấn lệnh cấm bất kỳ tù binh Mỹ nào chịu thỏa hiệp để được mau trả tự do, vậy mà tôi không hề đơn độc. Huấn lệnh ban ra được đồng thuận hưởng ứng thấy rõ và được hầu hết anh em bạn tù phấn khởi và tự nguyện làm theo.
Để xem ai phải bị đi đày nơi xó tối. Họ đã cô lập chính tôi, tiểu tổ cầm đầu cùng một tốp 10 tuyển thủ ưu tú của tôi – và đem chúng tôi đi đày. Phải công nhận người Việt đã dày công bám sát hiểu kỹ những thói quen tập tính của chúng tôi, và họ biết những ai là kẻ gây rắc rối cho họ và những ai không. Họ đem đi biệt giam những nhân tố mà tôi tin cậy nhất: những con tuấn mã nòi có kỷ lục dài ngày chịu cùm kẹp trong xà lim biệt giam. Không phải tất cả đều vào hàng cấp trên hay cấp cao. Một anh trong số 10 tuyển thủ của tôi chỉ mới 24 tuổi lúc tôi đã ở trong Hải quân rồi. Anh ấy như thể xuất lộ để lên lời minh chứng cho thiên hướng cầm quân gần đây của tôi: “Khi bản năng chiến đấu và ngôi thứ cấp bậc không đi đồng bộ với nhau, thì tốt nhất là chọn lấy người bản năng.” Tất cả chúng tôi bị tống vào biệt giam suốt, khởi đầu là hai năm cùm chân trong một nhà tù nhỏ được canh giữ nghiêm ngặt ngay cạnh tòa nhà Bộ Quốc phòng của Bắc Việt, một kiến trúc kiểu Pháp cổ điển hình.
Biết bao chuyện sau chồng lên chuyện trước kể từ đó, nhưng trong trường hợp của tôi, họ đành phải xuống thang trong một cuộc tỷ đấu ăn miếng trả miếng căng thẳng bất tận giữa Giám thị trại tù với đoàn tù vì chúng tôi quyết không từ bỏ việc gắng sức trông nom canh giữ anh em mình. Cái giá ném vào canh bạc tranh đấu khá cao tới mức những con số biểu thị tỷ lệ suy sụp thần kinh của đoàn tù tăng lên. Một người trong số 11 người chúng tôi đã chết trong nhà tù nhỏ đó mà chúng tôi gọi nó là Alcatraz. Sức người không tài nào chịu nổi cảnh bị biệt giam ba năm rưỡi mà không thương tích đầm đìa, và trong chúng tôi có bốn người phải chịu tới hơn bốn năm biệt giam.
Howie Rutledge, là một trong bốn người chúng tôi với hơn bốn năm biệt giam như vậy, sau khi về nước, đã quay lại giảng đường đại học và lấy được chứng chỉ Cao học. Luận án của ông tập trung vào đề tài ‘muốn làm băng hoại căn tánh thâm niên của con người thì trong hai cách tra tấn với cô lập, biệt giam cái nào hiệu quả hơn’. Ông cũng có gửi bảng các câu dò hỏi qua thư để khảo sát ý kiến chúng tôi (cũng đã bị cùm biệt giam ít nhất 10 lần), và những bạn tù khác chiếm kỷ lục về việc bị hành hạ ngược đãi cực độ trong lao tù. Qua kết quả trả lời, ông thấy rằng những ai bị tra tấn nhiều lần và bị biệt giam dưới hai năm thì cho rằng tra tấn là cách tốt nhứt; còn ai bị tra tấn nhiều và bị biệt giam hơn hai năm thì trả lời rằng để biến đổi nhân cách thâm niên của một con người thì biệt giam, cô lập là cách tối ưu. Về phần quan điểm của tôi thì nếu bạn cứ thường hay bị hành hạ tra tấn lặp đi lặp lại bằng cùm – thì vẫn còn có mấy cái mẹo để giảm nhẹ tổn thất của ta trong cái trò đó. Nhưng hãy giữ rịt một người, thậm chí là người có ý chí vô cùng cương mãnh, biệt giam trong ba năm hoặc hơn, thì thể nào anh ta cũng khởi sự tìm kiếm một người bạn, bạn nào cũng được mà không bận tâm đến quốc tịch hay ý thức hệ gì hết.
Một lần, Epictetus thuyết giảng cho các giảng sư của ông, ông khá là phàn nàn về xu hướng chung của các tân giảng viên là xem nhẹ cái thực tế trần trụi của trọng trách Khắc Kỷ mà cứ thuận tình đưa ra cho học viên một bức tranh màu hồng phơi phới trong việc làm thế nào để đối mặt với những đòi hỏi cam go của một đời thiện lương mà không đau khổ. Epictetus nói: “Các ông ơi, giảng đường của triết gia là một cái nhà thương; sinh viên không nên bước ra khỏi đó với niềm vui, mà là nỗi đau.” Nếu giảng đường của Epictetus là một bệnh viện, thì nhà tù tôi ở là một phòng thí nghiệm – phòng thí nghiệm về nhân cách con người. Tôi quyết định kiểm chứng các định đề của ông vụ vào ngay cái chỗ những thách thức đầy yêu sách nơi đời thực là phòng thí nghiệm tôi. Tôi không nói về tẩy não; Không có chuyện như vậy. Tôi muốn nói chuyện nhìn cho thấu vực thẳm đời người, ngó tận đáy vực, để nhận chân một cái then guồng chủ chốt của tư tưởng Khắc Kỷ: rằng, cái khiến một con người gục ngã không phải là đoạn trường khổ đau mà là nỗi ô nhục!
Vì sao những người lần đầu bị cùm biệt giam rồi bị đưa đi “nhúng lạnh”, lúc mới được thả ra lại lặng lẽ héo hắt sầu bi và thấy mặc cảm mình không xứng đáng khi gặp lại bạn tù Mỹ? Epictetus quả là thấu biết căn tánh con người. Trong phòng thí nghiệm – nhà tù đó, tôi biết không có một trường hợp cá biệt nào mà một người dùng mấy cái bài giáo khoa tâm lý học phổ thông về Nhân – Quả để có thể xóa bỏ được nỗi day dứt dày vò lương tâm mình. Epictetus từng nhắc đi nhắc lại nhấn mạnh một sự thể rằng kẻ nào đổ thừa cái Nhân khiến anh ta làm hay không làm một điều gì đó cho một nhân tố khách thể hoặc một thúc bách của tình thế ngoại lai thì kẻ đó chẳng xứng đáng với chính mình. Nếu thành thật với lòng mình thì anh ta phải sống chết với những phán xử của chính mình. Một học trò có ý kiến: “Nhưng nếu có kẻ bức ép dọa tôi sợ chết thì sao, tôi bị bức bách mà.” “Không,” Epictetus đáp, “Không phải cái chết, không phải đọa đày, cũng không phải khổ sai, hay bất cứ thứ gì như vậy mà là cái Nhân của việc anh làm hay không làm, chẳng có bất cứ điều gì hết, duy chỉ có lập trường và quyết tâm của Ý Chí nơi anh mà thôi.”
Có người hỏi Epictetus: “Chủ thuyết của ông đưa đến thành tựu gì?”. Ông đáp: “Bình an, vô úy và tự tại”. Chỉ khi bạn thành thực với lòng mình và chịu trách nhiệm những gì mình làm thì bạn mới đạt được như thế. Bạn là chủ soái của mình chứ không ai khác.
Trong tù, tôi chưa một lần nào viện đến hay đề cập đến chủ nghĩa Khắc Kỷ. Bạn sẽ chóng nhận ra nếu anh chàng bên cạnh vẫn ổn, điều đó có nghĩa là anh ta đã tự mình đấu tranh tư tưởng không ngừng bằng một cách riêng. Nhưng cũng có đồng đội tù nhạy bén đã đọc được các mật hiệu trong các hoạt động của tôi. Sau một trong những cú bị biệt giam dài ngày cách xa các dãy buồng tù, tôi được đưa trở về nhà cũ như thể về với gia đình truyền tin mật mã gõ vách. Đầu mối liên lạc của tôi bây giờ là một bạn tù tên là Dave Hatcher. Theo đúng phương thức vận hành cũ không thay đổi, lần tiếp xúc đầu tiên sau một thời gian dài xa cách, người tái nhập dòng không phải với luồng tin tức tràn ngập mà trước tiên phải là tín hiệu nguy cấp đã thỏa thuận; thứ nhì là một mẩu chuyện làm vỏ bọc ngụy trang cho mỗi người nếu chẳng may bị bắt gặp; và thứ ba, hệ mật mã liên lạc dự phòng ngộ nhỡ đường dây này bị bán đứng – là biện pháp phòng ngừa những “tên tù gà rù khép kín”. Hệ mã dự phòng của Hatcher đưa tôi là một mẩu vật với ghi chú gạch đầu dòng cạnh một hố xí cũ gần cái nơi mà chúng tôi gọi là Mint, tức cái xà lim biệt giam người phe ta – nơi mà anh đoán đúng phóc là sớm muộn gì tôi cũng tới. Mỗi ngày chúng tôi truyền tín hiệu chừng 15 phút, qua cái vách ngăn giữa xà lim giam anh với chỗ tôi mà tôi gọi là “vùng đất không người”.
Toan giũ nợ đời
Rồi tôi lại dính một vụ phiền phức. Vào lúc đó, tên chính trị viên trại giam đã cô lập tôi và tôi bị giám sát gần như liên tục trong năm kể từ khi tôi sắp đặt để tổ chức một vụ nổi dậy ở Alcatraz đòi chúng không được cùm chân tù nhân nữa. Chúng tách tôi ra xa khỏi tất cả các dãy buồng tù. Tôi có những tên canh gác đặc biệt theo một bên, và chúng bắt gặp tôi với một mẩu ghi chú chuyền đến tôi cung cấp cho tôi nhiều hướng dẫn, là thứ mà tôi biết bọn cán bộ khảo cung sẽ lần mò ra gốc tích bằng cách tra tấn. Hậu quả vụ này là liên lụy đến nhiều chiến hữu của tôi sẽ bị chúng đưa vào cái mà Bắc Việt gọi là “vùng trời đen”. Tôi đã trải qua những trò cùm kẹp đó hơn chục lần, và tôi biết tôi có thể thu rút thịt da lại miễn là chúng không biết tôi biết cách làm như thế. Nhưng mẩu ghi chú này là cái sẽ khơi dẫn đến nhiều người sẽ bị thiệt mạng nếu bị đưa vào đó. Chúng tôi đã tổn thất một ít trong các cuộc thanh lọc lớn – tôi muốn nói là trong các đợt tra tấn quá đà – và nghĩ tới đó tôi thấy quá chán ngán.
Đó là mùa thu năm 1969. Tôi đã đảm nhiệm vai trò này được bốn năm, và xem ra không còn gì để làm nữa ngoài chuyện chấp nhận hy sinh. Vào đêm hôm trước, chúng để tôi một mình trong buồng tra tấn chính, là một phần biệt lập với trại tù, lúc ấy chúng có bảo tôi sẽ đến cái ngày tôi nếm mùi đổ ruột. Trại tù bấy giờ mang một sắc thái kỳ quái. Hồ Chí Minh vừa mới chết và có một thứ nhạc truy điệu vang vang. Tôi đã phải ngồi cả đêm với mớ xích sắt tra tấn dung đưa lắc lư. Chỗ tôi ngồi gần với ô cửa sổ kính duy nhất trong buồng tù. Tôi xàng xê lê lếch được đến và khẽ đập bể ô cửa kính. Tôi lấy một mảnh vỡ lớn dò tới các động mạch cổ tay rồi đánh văng ngọn đèn ra ngoài, nhưng bọn lính cảnh vệ tình cờ phát hiện ra tôi bất tỉnh nhân sự sắp chết trên vũng máu còn thoi thóp thở. Chúng cấp báo cho Tổng cục, đem y sĩ lại cứu tôi.
Tại sao thế? Chẳng phải đợi đến mấy năm sau đó khi chúng thả tôi về tôi mới biết, rằng ngay trong tuần đó, vợ tôi, Sybil, đang có mặt ở Paris lên tiếng đòi hỏi phải đối xử nhân đạo với các tù binh. Nàng hiện diện trên các bản tin thế giới như một nhân vật của công chúng, và điều sau cùng mà Bắc Việt cần là tôi phải chết. Khi tôi hồi tỉnh, có một đám đông lố nhố vẻ nghiêm trọng trong căn phòng gồm các sĩ quan cao cấp của Bắc Việt. Việc tra tấn trong tù ở Hà Nội, như chúng ta đã biết, đã kết thúc với tất cả mọi người kể từ đêm hôm đó.
Tất nhiên, phải mất thêm nhiều tháng nữa chúng ta mới đoan chắc được như vậy. Còn tôi, những gì với tôi lúc đó là, đến sáng, sau khi băng bó cánh tay tôi xong, tay chính trị viên mang vào một tách trà nóng, bảo tên cảnh vệ tháo cùm chân tôi ra và mời tôi ngồi xuống bàn với y ta. “Tại sao anh lại làm thế, Sto-dale? Anh biết đấy, tôi có họp với Ban tham mưu quân đội; sáng nay họ yêu cầu tôi làm một báo cáo đầy đủ về chuyện này.” (Chẳng có gì lạ lúc đó tôi với y ta mới nói chuyện với nhau như vậy) Nhưng y ta không một lần đề cập đến mẩu ghi chú đó, và về sau cũng không có ai nhắc tới nữa. Đó là chuyện chưa từng có. Chừng một đôi tháng sau trong một buồng tù nhỏ tí biệt lập mà chúng tôi gọi là Calcutta để chờ vết thương nơi tay của tôi lành lại, bọn họ mới bịt mắt tôi và đưa tôi đến ngay khu buồng tù mà chúng tôi đặt tên là “Las Vegas”. Biệt giam và giám sát đặc biệt đã kết thúc. Tôi vẫn bị giam, một mình, dĩ nhiên, trong Mint.
Dave Hatcher biết tôi đã trở lại vì tôi đi ngang qua dưới ô cửa sổ buồng giam anh, và mặc dù anh không có cách gì lén nhìn ra ngoài nhưng vẫn nghe được, vì suốt nhiều năm, anh đã chú ý nghe ra một thứ “chữ ký” nơi bước chân tôi, của một người đi cà nhắc nặng nề. Không lâu sau, một dây kẽm đã gỉ sét trên cái hố xí công cộng bị uốn cong làm thành ám hiệu chỉ về hướng bắc của Dave Hatcher ý nói “ghi chú cho Stockdale ở trong cái chai dưới hố xí.”
Là một phi công chiến đấu kỳ cựu, tôi bèn rà theo hướng 6 giờ, lật nhanh mẩu vật lên và thận trọng giấu nó vào chiếc quần pyjama của nhà tù. Quay lại buồng giam, chờ tên cảnh vệ khóa cửa xong, tôi đến ngồi lên cái thùng vệ sinh – là nơi tôi có thể lẹ làng vứt cái ghi chú đi nếu thấy cái nắp lỗ nhìn từ bên ngoài cửa buồng tù động đậy – rồi mở ra một miếng vải loại rẻ tiền dùng làm khăn lau của Hatcher, trên đó có in hình con chuột đang rơi, không chú thích không chữ ký, khổ cuối bài thơ lnvictus của Ernest Henley:
Chẳng hề gì cánh cửa rộng hẹp
Hay chịu lụy hình với đồ cuộn giấy
Chỉ tôi là chủ tể của vận mệnh tôi
Mỗi tôi là thuyền trưởng của thuyền hồn tôi Le Tung Chau dịch
[1] Một Ngày Trong Đời Ivan Denissovitch – One Day in the Life of Ivan Denisovich, by Aleksandr Solzhenitsyn do Thạch Chương và Trần Lương Ngọc dịch, NXB Nguồn Sống Saigon 1970
[2] Nguyên văn: BACK US: Don’t Bow in public; stay off the Air; admit no Crimes; never Kiss them good-bye.
Leave a Reply
Your email is safe with us.